Khăn rằn là hình ảnh quen thuộc của người đồng bằng sông Cửu Long và bộ phận người Khmer. Không rõ nó ra đời từ bao giờ, nhưng nó đã đồng hành cùng những con người thời khai hoang mở cõi phía Nam của Tổ quốc, rồi được ông bà xưa sử dụng phổ biến trong đời sống lao động, sinh hoạt hàng ngày. Qua thời gian, chiếc khăn rằn đã trở thành nét đẹp văn hóa truyền thống trong trang phục của người dân miền sông nước.
Chiếc khăn rằn cùng chiếc áo bà ba đã trở thành hình ảnh gần gũi với mọi người, như là một biểu tượng cho người phụ nữ đồng bằng sông Cửu Long cần cù dũng cảm, đáng yêu. Đánh nhớ nhất là hình ảnh chiếc khăn rằn xuất hiện trong hình ảnh quân du kích Việt Nam.
Khăn thường có hai màu trắng – đen… Hai màu này tạo thành những họa tiết ô vuông nhỏ đan xen nhau, chạy dọc, chạy ngang khắp mặt khăn, và có lẽ chính các lằn ngang dọc này mà có tên gọi khăn rằn. Chiếc khăn rằn có chiều dài khoảng 1,2 m, rộng chừng 40 – 50 cm, không cầu kỳ, sặc sỡ mà rất đỗi bình dị, giản đơn.
Lúc đầu, khăn rằn dệt thủ công bằng tay, nên tạo họa tiết caro (là họa tiết đơn giản, dễ dệt nhất), về sau, bên cạnh dệt thủ công, đã xuất hiện những khung dệt máy. Ngoài 2 màu sắc trắng – đen truyền thống thì khăn ngày nay còn được dệt phối bằng những màu lạ mắt, tinh tế như: Hồng – trắng, đen – đỏ, xanh – hồng… Không chỉ vậy, tùy theo thị hiếu người dùng, sản phẩm mới có nhiều kích thước, được đan dày hơn (2 lớp), 2 đầu khăn được thắt tếch để hợp thời trang…tuy nhiên, họa tiết caro truyền thống vẫn được bảo lưu và chiếm vị trí độc tôn cho đến nay.
Để làm ra chiếc khăn rằn hoàn chỉnh, người thợ phải tốn nhiều thời gian, bởi trải qua nhiều công đoạn, từ việc xả những cuộn chỉ lớn thành những búi nhỏ, cho chỉ vào nồi nhuộm màu rồi phơi trên giàn. Sau đó, đến công đoạn lên bột hồ cho chỉ, quấn chỉ vào những con thoi đưa lên khung dệt, dệt thành những tấm khăn rằn hoàn chỉnh nối liền nhau, cuối cùng là cắt khăn rằn thành từng chiếc lẻ (người trong nghề gọi là “xé khăn”).
Trong suốt quá trình sản xuất khăn rằn, công đoạn lên hồ (bột hồ được lấy từ bột gạo) được xem là quan trọng nhất, bởi nó giúp những sợi chỉ cứng hơn, dễ dàng dệt khăn và khi dệt xong khăn rằn sẽ có độ cứng vừa phải, dễ gấp nếp; Nhưng khi sử dụng, giặt qua nhiều lần lớp hồ trôi đi, khăn sẽ trở nên mềm mại; Đó là một trong những đặc điểm vô cùng độc đáo của những chiếc khăn rằn.
Bên cạnh nét đẹp thẩm mĩ, khăn còn có nhiều tiện ích, thông dụng như: Quàng trên đầu để che nắng, che sương, quấn ngang trán để thấm mồ hôi khi lao động. Rồi để người con gái cột lỏng khăn quanh cổ, thả hai đầu khăn dài xuống ngực, để khi làm mệt tiện tay dùng khăn lau mồ hôi hay choàng vai cho ấm. Khăn rằn còn được “biến tấu” thành giỏ xách đựng đồ như hình dáng một tay nải, hoặc đơn giản là phụ kiện làm đẹp đi cùng với trang phục áo bà ba. Khăn không chỉ gắn bó mật thiết với người dân lao động lam lũ, mà cả những điền chủ, người giàu có, người lớn, trẻ em cũng sử dụng loại khăn này.
Khăn rằn đã kiên cường đồng hành cùng các chiến sĩ giải phóng quân trên khắp các nẻo đường hành quân diệt thù, bảo vệ Tổ quốc. Khăn che mưa, che nắng, thắm giọt mồ hôi, gói đựng ít đồ dùng cá nhân, băng bó vết thương, khăn như lời động viên tiếp thêm sức mạnh lập bao chiến công vang dội, khăn đầy gần gũi yêu thương luôn cùng các các má, các chị, các “o du kích”… mở đường, phá bom, từ căn cứ ra chiến trường, là món quà mẹ tặng tiễn chồng, con ra chiến khu, là kỷ vật thân thiết mà các đồng đội gửi tặng cho nhau bên chiến hào, là lời hẹn ước, kể cả để lau khô dòng nước mắt hay giấu đi một nụ cười.
Trong phong trào Đồng Khởi, đội quân tóc dài với chiếc áo bà ba và cái khăn rằn đã bao bao phen gây khiếp đảm cho quân thù “áo bà ba khăn rằn tay không bắt giặc”, khăn là “đồng đội” được sử dụng như một ám hiệu trong chiến đấu, là vật đánh dấu “phe mình”. Chiếc khăn rằn cùng chiếc áo bà ba đã trở thành hình ảnh gần gũi với mọi người, làm nên đặc điểm trang phục của đồng bào Nam Bộ. Cụ thể hơn, nó là biểu tượng cho người phụ nữ Miền Tây cần cù, mộc mạc mà duyên dáng, cũng như những tấm lòng chân tình, nồng hậu của con người đất phương Nam.
Khăn rằn còn được dùng để làm đẹp thêm cho những bộ trang phục lễ hội truyền thống, là đạo cụ trong biểu diễn múa hát, văn nghệ, điện ảnh, sân khấu, hoạt động hội đoàn, hội thi, chụp ảnh kỷ niệm, dã ngoại, làm quà tặng, khăn rằn một thời đi vào thơ, ca, nhạc, họa. Với vẻ đẹp riêng kín đáo trang nhã mà quyến rũ có duyên, chiếc khăn rằn độc đáo được giới thiệu rộng rãi với du khách trong và ngoài nước. Từ đó nó đã trở thành món quà lưu niệm ấn tượng đặc biệt cho khách du lịch Miền Tây.
Trải qua bao thế hệ, chiếc khăn rằn Nam Bộ xưa nay vẫn mãi là hình ảnh thân quen gần gũi với người dân miền quê vùng sông nước Nam Bộ, đây chính là nét đẹp văn hóa sâu sắc in đậm trong tiềm thức của người dân vùng đất phương Nam, đặc biệt là miền Tây Nam Bộ. Việc gìn giữ nét đẹp truyền thống văn hóa của ông cha – văn hóa khăn rằn, để tiếp tục lưu truyền cho các thế hệ sau là một điều hết sức có ý nghĩa, góp phần giáo dục, nâng cao nhận thức của xã hội đối với việc bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống trong trong cuộc sống hôm nay và mai sau.
Ở miền Tây Nam Bộ có một làng nghề dệt khăn rằn nổi tiếng hàng trăm năm qua. Đó là làng nghề dệt choàng Long Khánh ở huyện Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp. Qua nhiều thăng trầm của thời gian, những nghệ nhân không chỉ giữ nghề, mà còn đưa những chiếc khăn trở thành mặt hàng quà tặng giá trị đối với du khách khi đến với Miền Tây sông nước.
Tin, ảnh: Quỳnh Chi
Theo langngheviet.com.vn
https://langngheviet.com.vn/van-hoa-xa-hoi/khan-ran-net-dep-van-hoa-truyen-thong-cua-nguoi-dan-mien-tay-nam-bo.html26315
Bình luận